Bộ máy nhà nước là gì – Tìm hiểu về bộ máy nhà nước

Bộ máy nhà nước là gì

 Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương hợp thành hệ thống được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.

Bộ máy nhà nước tiếng anh là gì

 State apparatus

Bộ máy nhà nước gồm những cơ quan nào

 Nhìn tổng quát, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành các phân hệ sau:

 a, Quốc hội

 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 Hiến pháp 2013.

 b, Chủ tịch nước

 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86); nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 88 Hiến pháp 2013.

 c, Chính phủ

 Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội trên cơ sở Hiến pháp và luật.

 d, Các cơ quan xét xử:

 Các cơ quan xét xử gồm:

 – Tòa án nhân dân tối cao.

 – Tòa án nhân dân địa phương.

 – Tòa án quân sự.

 – Các tòa án do luật định.

 Nhiệm vụ là xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình… để bảo vệ trật tự pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của tòa án là độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.

 e. Các cơ quan kiểm sát

 Các cơ quan kiểm sát gồm:

 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 – Viện kiểm sát nhân dân địa phương.

 – Viện kiểm sát quân sự.

 Nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quyền công tố nhà nước trong phạm vi thẩm quyền do luật định, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

 g. Chính quyền địa phương

 Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 113).

 Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều 114).

Vai trò của bộ máy hành chính nhà nước trong bộ máy nhà nước

 Do sự khác biệt về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và xã hội nên bộ máy hành chính nhà nước ở các quốc gia khác nhau được tổ chức không giống nhau. Vì vây, nhiều tác giả cũng có cách tiếp cận khác nhau về bộ máy hành chính nhà nước cụ thể là:

 Theo Từ điển Luật học: “Bộ máy hành chính nhà nước là tổng thể hệ thống các cơ quan chấp hành và điều hành lập ra để quản lý toàn diện hoặc quản lý ngành, lĩnh vực trong cả nước hoặc trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Bộ máy hành chính thường là bộ phận phát triển và phức tạp nhất của bộ máy nhà nước của một quốc gia. Bộ máy hành chính Nhà nước được tổ chức thành hệ thống thống nhất theo đơn vị hành chính từ Trung ương đến địa phương, đứng đầu là Chính phủ.

 Như vậy, các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập trên cơ sở luật định để thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn trong từng lĩnh vực nhất định. Là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước còn có những dấu hiệu đặc thù, nhờ đó chúng ta có thể phân biệt với các cơ quan khác của nhà nước.

 Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước – hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động mang tính dưới luật;

 Thứ hai, cơ quan hành chính nhà nước có phạm vi thẩm quyền nhất định giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định;

 Thứ ba, các cơ quan hành chính nhà nước có mối liên hệ trong hệ thống trực thuộc, cấp trên cấp dưới tạo thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến cơ sở.

 Ngoài ra, từ cách tiếp cận trên có thể thấy rằng; đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là Chính phủ. Chính vì vậy, để hoàn thành tốt những nhiệm vụ trên, chính phủ phải được tổ chức thành một bộ máy thống nhất với các bộ phận cấu thành hợp lý để đảm đương các chức năng nhiệm vụ và quyền hạn trong từng lĩnh vực cụ thể. Bộ máy đó bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ… Đồng thời các cơ quan hành chính nhà nước trung ương, hoạt động quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh còn phải được tiến hành trong phạm vi từng địa phương. Để đảm trách nhiệm vụ này, một hệ thống các cơ quan quản lý hành chính địa phương được thiết lập trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ của quốc gia.

 Theo, Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính thì bộ máy hành chính nhà nước là “hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước hợp thành chỉnh thể thống nhất (Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ…và ủy ban nhân dân các cấp, các sở, phòng…của Ủy ban nhân dân), có chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định rõ ràng, được tổ chức theo một trật tự thứ bậc và hoạt động trong mối quan hệ truyền đạt, điều phối, kiểm tra…để thực hiện quyền hành pháp và quản lý, điều hành mọi mặt đời sống xã hội của một quốc gia”.

 Như vậy, có thể thấy bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống tổ chức lớn nhất bao gồm nhiều vấn đề quan trọng mà bất cứ tổ chức nào khác đều không có. Hay nói cách khác, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống đặc biệt, vừa chứa dựng bên trong có những nguyên tắc chung vềkhoa học tổ chức, vừa có đặc điểm của bộ máy cai trị mang tính quyền lực công, vừa chứa đựng các yếu tố thuộc về khoa học tổ chức quản lý, nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng biệt mà các tổ chức thông thường không có, đó là hoạt động mang tính công quyền (thực hiện quyền hành pháp). Ví dụ (Luật tổ chức Chính Phủ Việt Nam năm 2001, sửa đổi năm 2015).

 Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát trực tiếp và thường xuyên của các cơ quan quyền lực nhà nước. Bộ máy hành chính nhà nước được thành lập trên cơ sở pháp luật, chịu sự chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính cao nhất, trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành để nhằm thực hiện chức năng quản lý, đưa đường lối, chính sách, chủ trương của giai cấp cầm quyền vào cuộc sống.

 Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, thực thi một trong ba ngành của quyền lực nhà nước. Bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đứng đầu là chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện quyền hành pháp. Để thực thi quyền hành pháp hiệu lực và hiệu quả cao nhất, bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc thứ bậc, cấp trên lãnh đạo, chỉ đạo, cấp dưới phục tùng, tuân lệnh và chịa sự kiểm soát của cấp trên trong hoạt động. Bộ máy hành chính nhà nước mặc dù là một bộ máy thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, song nó thường được chia thành hai bộ phận: một là, bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương tức là bộ máy của Chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ có vai trò quản lý nền hành chính toàn quốc; hai là, bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương-bao gồm toàn bộ các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương nhằm thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước tại địa phương. Bộ máy hành chính nhà nước Trung ương và địa phương có thể được hiểu như sau:

 Bộ máy hành chính Trung ương: Là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước trung ương hợp thành chỉnh thể thống nhất (chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ…) có chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định, thực hiện quyền hành pháp ở trung ương.

 Trong cơ cấu nhà nước, Chính phủ có một vai trò hết sức quan trọng. Ở các nước trên thế giới, Chính phủ có thể có các tên gọi khác nhau, như Chính phủ, Nội các, Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhà nước…, nhưng khái quát nhất, Chính phủ là cơ quan được lập ra để tổ chức thực hiện trên thực tế quyền lực nhà nước, tiến hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

 Trong cơ cấu tổ chức của chính phủ bao gồm: Các bộ, cơ quan ngang bộ. Trong công trình nghiên cứu này gọi chung là cấp bộ. Bộ được hiểu và sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tiếp cận dưới góc độ thuật ngữ hành chính. Bộ là cơ quan hành chính cấp trung ương, có chức năng điều hành, chỉ đạo và quản lý công việc của chính phủ trong phạm vi toàn xã hội, cả nước, có quyền thay mặt chính phủ trong lĩnh vực, ngành được giao. Bộ là
cơ quan hành chính cấp trung ương mà người đứng đầu thông thường là nhân vật chính trị hoặc chính trị gia.

 “Bộ và cơ quan ngang bộ là bộ máy chính phủ, có chức năng tham mưu cho chính phủ và quản lý vĩ mô đối với ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước”.

 Theo thuật ngữ hành chính: “Bộ là cơ quan của chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành (đa ngành), lĩnh vực nhất định trên phạm vi cả nước”[20, tr 12]. Bộ là cơ quan hành chính ở cấp trung ương, chịu trách nhiệm điều hành và vạch ra chiến lược phát triển ở một hay một số lĩnh vực nhất định. Là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước về mặt hành pháp và là cơ quan thẩm quyền riêng.

 Trong chính phủ, ngoài các bộ quản lý ngành, lĩnh vực là những đơn vị chủ yếu tiến hành hoạt động quản lý hành chính nhà nước, còn có các cơ quan thuộc chính phủ được thành lập để thực thi một số hoạt động cụ thể của nhà nước hoặc được trao một số chức năng quản lý nhà nước, nhưng không có  quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Những cơ quan này được  thành lập nhằm thực thi những điều quy định của Hiến pháp và pháp luật trên lĩnh vực cụ thể mà các bộ không có hoặc thực hiện hạn chế. Ở các nước, loại cơ quan này thường được gọi là các cơ quan độc lập, do người đứng đầu hành pháp lập. Một số cơ quan là những nhóm quản lý có quyền giám sát nhưng khu vực đặc biệt của nền kinh tế. Một số cơ quan khác cung cấp các dịch vụ đặc biệt cho chính phủ hoặc cho xã hội.

 Cơ quan thuộc chính phủ làm việc theo chế độ thủ trưởng. Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ chịu trách nhiệm trước chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các công việc được giao. Việc thành lập cơ quan thuộc chính phủ linh hoạt hơn việc thành lập các bộ. Số lượng các cơ quan thuộc chính phủ tùy thuộc vào việc thiết kế tổ chức bộ máy chính phủ trong từng nhiệm kỳ.

 Bộ máy hành chính địa phương: Bộ máy hành chính địa phương có thể được hiểu trên hai phương diện: phương diện thứ nhất là “tập hợp tất cả các tổ chức hành chính địa phương, hay nói cách khác, đó là hệ thống của các tổ chức hành chính địa phương (cơ quan hành chính địa phương); phương diện thứ hai là một thực thể hoạt động quản lý các vấn đề trên một địa phương nhất định. Có thể là những thực thể quản lý chung các vấn đề (Ủy ban nhân dân); cũng có thể là quản lý một vấn đề cụ thể”.

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Xuất phát từ những hạn chế nhất định trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 1992[10], Hiến pháp mới đã có những bước tiến quan trọng khi bổ sung, hoàn thiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tại Điều 2 của Hiến pháp. Cụ thể là, Hiến pháp mới khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soátgiữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[11].
Việc hiến định nguyên tắc trên đã thể hiện bước phát triển lớn trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền nhân dân, về nguyên tắc, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc.
            Về lý luận, tổ chức quyền lực của bộ máy nhà nước ta dựa trên quan điểm về sự thống nhất quyền lực: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”của tư tưởng dân chủ XHCN[12]Nguyên lý này không những được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta mà hầu hết các nước có chế độ chính trị dân chủ và pháp quyền trên thế giới. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện bằng cách trao một phần quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp, đồng thời giữ lại một phần quyền lực của mình để thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Kế thừa tư tưởng đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định rõ nguyên tắc phân công phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp khi quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọngcủa đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước[13]; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội[14]; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp[15].
Thực tế ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng ta đã chỉ ra.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Ngược lại, mỗi cơ quan sẽ có điều kiện phát huy đầy đủ trách nhiệm và thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân.
Về thực tiễn, là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải kiểm soát được quyền lực đó. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Điều 2 Hiến pháp mới đã xác định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta. Đồng thời, Hiến pháp mới chỉ rõ phương thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[16].
Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp và quyền lực nhà nước chỉ có thể được kiểm soát khi Nhà nước có cơ chế xác định rõ ràng và có các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm hình thức kiểm soát theo chiều ngang (là sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước) và hình thức kiểm soát theo chiều dọc (là sự kiểm soát giữa trung ương và địa phương thông qua việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương; sự kiểm soát của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối với các cơ quan được ủy quyền thực thi quyền lực nhà nước). Theo đó, những nội dung này đã được Hiến pháp mới thể hiện một cách rõ hơn.
Về hình thức kiểm soát theo chiều ngang
Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Một làHiến pháp mới đã thể hiện rõ sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
 Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ được khẳng định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan xét xử và là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, việc phân biệt rõ ràng các nhóm quyền thuộc ba quyền này cũng được Hiến pháp mới quy định.
Như vậy, mặc dù Nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập nhưng Hiến pháp mới đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập” khi đã ghi nhận rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp mới và trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mới có hiệu quả.
Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy không những tạo sự phân công, phân nhiệm rành mạch mà còn tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.
Hai là, Hiến pháp mới thể hiện rõ hơn sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước.
 Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh sự lấn sân, chồng chéo khi thực thi các chức năng, nhiệm vụ đó.
a) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp:
Hiến pháp mới khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này. Cụ thể:
Quyền lập hiến: Hiến pháp mới quy định rõ việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp như sau: “1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; 3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp; 4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểuQuốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[17]. Như vậy, việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà dựa trên ý kiến của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
            Quyền lập pháp: Hiến pháp 1992 quy định quyền lập pháp do Quốc hội thực hiện. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc thông qua hay không thông qua các dự án luật. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể khác nhau trong việc trình các dự án luật[18]. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề sáng kiến lập pháp, Hiến pháp mới tiếp tục ghi nhận các chủ thể có quyền trình các dự án luật tại Điều 84 như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội”[19].
Như vậy, Hiến pháp mới đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể và có quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền[20]. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, có hơn 95% các dự án luật là do Chính phủ trình, một số văn bản luật do Tòa án nhân dân tối cao soạn thảo và trình Quốc hội. Sự tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp.
Bênh cạnh đó, Chủ tịch nước cũng tham gia vào quá trình lập pháp này với vai trò sáng kiến lập pháp, công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Trong quá trình công bố các văn bản pháp luật, Chủ tịch nước cũng có quyền không công bố pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua và có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại Pháp lệnh đó. Trong trường hợp UBTVQH vẫn tán thành quyết định đó thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại ở kỳ họp gần nhất. Đây là cách thức Chủ tịch nước vừa tham gia, vừa kiểm soát quyền ban hành Pháp lệnh của UBTVQH.
b) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp
Hiến pháp mới khẳng định: Chính phủlà cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đây là một điểm mới được quy định trong Hiến pháp mới so với Hiến pháp năm 1992. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH thì Hiến pháp mới đã khẳng định sự độc lập của Chính phủ trong việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý thống nhất các cơ quan trong bộ máy nhà nước­ của mình[21].
Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện rõ ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia; còn Chính phủ sẽ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành, thể hiện sự phản ứng linh hoạt của Nhà nước với thực tiễn phát triển trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn được thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, phân chia điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…; UBTVQH thì có quyền quyết định, thành lập mới, nhập, chia điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
c) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của Tòa án là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Việc bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Do đó, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất, giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, Hiến pháp đã bổ sung các quy định cụ thể vào chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập pháp, quy định một chương riêng về hai thiết chế hiến định độc lập, bao gồm: Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận hai thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát đối với quyền lập pháp: Cùng với việc phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới đồng thời khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, việc lập hiến, lập pháp được thực hiện bởi Quốc hội nhưng phải dựa trên ý kiến của nhân dân, được sự đồng thuận của các đại biểu Quốc hội và ý kiến của Chính phủ, Chủ tịch nước…
Hiến pháp mới quy định: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (Điều 69). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã bỏ cụm từ “duy nhất”, nhằm gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo đó, Chương XI của Hiến pháp mới quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, đã bổ sung quy định: “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[22]. Quốc hội với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.
Kiểm soát quyền hành pháp: Cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp. Theo đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng… Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ.
Sau khi Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm được thông qua thì một cơ chế kiểm soát mới từ phía Quốc hội đối với Chính phủ được thực hiện. Theo đó, Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu như Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn như Phó Thủ tướng, các bộ trưởng… Về phía các cơ quan tư pháp, việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ phía tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng được xác lập thông qua cơ chế phán quyết của Tòa hành chính đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Kiểm soát quyền tư pháp: Tòa án được xác địnhlà cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiện nay, trong cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp tham gia vào quyền lập pháp.
Theo Hiến pháp mới, cơ chế kiểm soát từ phía lập pháp đối với quyền tư pháp được thể hiện thông qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do mình bầu ra như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[23].
Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với quyền tư pháp là Chủ tịch nước thực hiện quyền kiểm soát tư pháp thông qua việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp…
Kiểm soát hai thiết chế hiến định độc lập: Đây là là hai thiết chế hoạt động độc lập nhưng vẫn chịu sự giám sát của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó,Chương X của Hiến pháp mới đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ sung quy định Quốc hội thực hiện việc “xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập”[24]; trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia[25] v.v..
Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều ngang chính là cơ chế kiểm soát bên trong giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thông qua việc phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới không chỉ tạo ra cơ chế ngăn chặn sự lạm quyền mà còn tạo được sự chủ động trong hoạt động của mỗi cơ quan, tiến tới sự hoạt động đồng bộ của bộ máy nhà nước.
Về hình thức kiểm soát theo chiều dọc
Hình thức kiểm soát này được hiểu là sự kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan công quyền (theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên) và sự phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Trước hết, cơ chế kiểm soát theo chiều dọc được thực hiện thông qua hình thức kiểm soát quan trọng nhất, kiểm soát của nhân dân – chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước – chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với chủ thể được ủy quyền là các cơ quan nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân dân có quyền kiểm soát trực tiếp các cơ quan nhà nước thông qua việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; bầu, miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, giám sát hoạt động của Đại biểu Quốc hội; thông qua Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn… Bên cạnh đó, thông qua các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp của mình, nhân dân thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức[26]. Đối với cách tiếp cận giám sát từ dưới lên: nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng của mình đối với Quốc hội, các cơ quan và tổ chức hữu quan thông qua các đại biểu do mình bầu ra…
Thứ hai, về sự phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa trung ương và địa phương: Hiến pháp mới ghi nhận HĐND và UBND là một thể thống nhất (dưới tên chung là chính quyền địa phương), có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Điều 111, Hiến pháp mới quy định: “1.Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. HĐND, UBND được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định”.
“Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”[27].
Như vậy, trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Hiến pháp mới đã quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị ví, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho chính quyền địa phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại địa phương, vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của cơ quan này. Theo đó, sự kiểm soát từ phía cơ quan lập pháp đối với chính quyền địa phương được thể hiện qua việc UBTVQH có quyền giám sát, hướng dẫn hoạt động của HĐND, có quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong trường hợp HĐND đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân[28].
Từ phía cơ quan hành pháp, bên cạnh chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác của UBND các cấp, Chính phủ có quyền kiểm tra HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên[29]…. Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản pháp luật của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ[30].
Tag: sơ đồ 2019 2017 2018 bắt buộc sản 1946 nguyễn ngô thanh vương vẽ nhật 2014 trạng 2020 sánh bày hồ tìm tinh gọn nào? thiểu 2016 2015 tập ai phong đông tây chxhcnvn 5