Nhà nước là gì – Chức năng của nhà nước

 Nhà nước là gì

 Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt, nên so với các tổ chức khác, Nhà nước có các dấu hiệu đặc trưng, cơ bản sau: phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ không phụ thuộc vào giai cấp, dân tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị xã hội, nghề nghiệp; có bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao gồm quân đội, cảnh sát, Toà án và một đội ngũ công chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cai trị, quản lí xã hội; có chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước về đối nội cũng như đối ngoại; có quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong xã hội, với tư cách là một công cụ đắc lực trong cai trị, quản lí xã hội; có quyền quy định các loại thuế mang tính bắt buộc đối với cá nhân và tổ chức trong xã hội nhằm thiết lập nguồn tài chính nuôi bộ máy công quyền và thực hiện các chức năng của mình.

 Bản chất của nhà nước là gì

 Vấn đề bản chất và ý nghĩa của nhà nước luôn luôn là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đồng thời đây cũng là một trong những vấn đề khó nhất đã “trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị” Những người đại diện cho triết học, sử học, chính trị, kinh tế học và chính luận tư sản đã đưa ra nhiều thứ lý luận làm cho vấn đề càng trở nên phức tạp hơn. Vì nhiều lý do, các nhà lý luận tư sản không giải thích được một cách đúng đắn và khoa học vấn đề bản chất nhà nước, nên ở góc độ này hay góc độ khác đã biện hộ cho sự thống trị của giai cấp bóc lột không thừa nhận những quy luật vận động khách quan của nhà nước. Với phương pháp luận khoa học, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành tựu của nhiều bộ môn khoa học, học thuyết Mác- lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích được một cách đúng đắn vấn đề bản chất và ý nghĩa của nhà nước nói chung cũng như của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.

 

 Xuất phát lừ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin đi đến kết luận “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”. Nghĩa là, nhà nước chỉ sinh ra và lồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.

 

 Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở để bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế co ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt những người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. VÌ vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.

 

 Quyền lực chính trị “là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác”. Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai cấp đối địch. Với ý nghĩa đó nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí nhà nước. Ý chí nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo một “trật tự” do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Làm như vậy, giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp mình đối với các giai cấp khác. Công cụ chủ yếu để thực hiện sự chuyên chính giai cấp là nhà nước, một bộ máy do giai cấp thống trị tổ chức ra.

 

 Trong các xã hội bóc lột, nền chuyên chính của các giai cấp bóc lột đều có đặc điểm chung là duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế và tư tưởng của thiểu số người bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động. Các nhà nước bóc lột đều có chung bản chất là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột: Nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Khác với điều đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội, để trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối cách mạng.

 

 Nhưng để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động về tư tưởng nữa. Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc mình về mặt tư tưởng.

 

 Như vậy, nhà nước là một bộ máy đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh tê, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần chúng. Ngoài việc thực hiện các chức năng trên, nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện các chức năng xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang bản chất xã hội.

 

 Mặc dù mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nhưng các nhà nước đều có một số đặc điểm chung. Để khái quát hóa bản chất chung của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin đã đưa ra nhiều định nghĩa. Trong đó, phần lớn các định nghĩa đều xác định nhà nước là một bộ máy để thực hiện sự thống trị giai cấp, là bộ máy của quyền lực nhà nước. V.I.Lênin định nghĩa: “Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác”. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Người giải thích rõ thêm “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”. Những định nghĩa này V.I.Lênin một mặt đã xác định rõ bản chất và ý nghĩa xã hội của nhà nước trong xã hội có giai cấp đối kháng (nhà nước theo đúng nghĩa của nó); mặt khác, đã nêu ra những yếu tố cơ bản cấu thành khái niệm nhà nước của bất kỳ kiểu nhà nước. Theo V.I.Lênin nhà nước trước hết là một bộ máy đặc biệt tách ra khỏi xã hội để thực hiện một quyền lực mang tính cưỡng chế và xét về bản chất, nhà nước bao giờ cũng là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có một số đặc điểm chung như các kiểu nhà nước khác, nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa mà chỉ là “nửa nhà nước”.

 

 Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội. Dù trong xã hội nào, nhà nước cũng một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp (lực lượng) cầm quyền, nhưng đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội.

 

 Từ những kết luận trên có thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.

 Chức năng của nhà nước

 Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Ví dụ: các nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột nhân dân lao động cho nên chúng có những chức năng cơ bản như bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của nhân dân lao động, tổ chức, tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng ảnh hưởng và nô ḍch các dân tộc khác. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, là công cụ để bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, vì vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của nhà nước bóc lột cả về nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện.

 Các kiểu nhà nước

 Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với bốn hình thái kinh tế xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:

 – Kiểu nhà nước chủ nô;

 – Kiểu nhà nước phong kiến;

 – Kiểu nhà nước tư sản;

 – Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.

 Quan điểm, chủ trương của đảng, nhà nước ta trong việc giải quyết tranh chấp biển, đảo hiện nay

 Trong những năm qua, bằng chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Ðông thông qua biện pháp hoà bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả thoả thuận quan trọng với các nước trong khu vực và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

 Thời gian gần đây, quan hệ đối ngoại, hợp tác quân sự, quốc phòng của Ðảng, Nhà nước ta ngày càng mở rộng. Bên cạnh đó, Mỹ và một số nước khác cũng đã lên tiếng công khai phản đối Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam về tình hình Biển Ðông. Lợi dụng cơ hội này, một số phần tử phản động và thế lực thù địch đã xuyên tạc, nói xấu chế độ, nói xấu Ðảng, Nhà nước, quân đội và đưa ra luận điệu kích động Việt Nam đánh Trung Quốc. Chúng lập luận hết sức phản động rằng: “Việt Nam phải đi theo Mỹ để chống lại Trung Quốc”, “Việt Nam đánh Trung Quốc lúc này, cả thế giới sẽ ủng hộ”.

 Do đó, đối với vấn đề tranh chấp trên Biển Ðông hiện nay, chúng ta phải đặc biệt cảnh giác trước chiêu bài của các phần tử phản động và thế lực thù địch. Việt Nam không thể trở thành con bài chính trị – nhất là của hai nước lớn, điều đó sẽ hết sức nguy hiểm cho lợi ích quốc gia, dân tộc.

 Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: âm mưu độc chiếm Biển Ðông của Trung Quốc không hề thay đổi. Ðối với giải quyết mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay Ðảng, Nhà nước ta đã xác định: giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc là bất di, bất dịch, bất khả xâm phạm.

 Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Giữ vững mối đoàn kết với tất cả các nước. Không được để xảy ra xung đột. Không để lệ thuộc về kinh tế; không để bị cô lập về chính trị; không để bị lôi kéo đi theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về quân sự.

 Quan điểm của Ðảng, Nhà nước ta về giải quyết những mâu thuẫn trên biển hiện nay là thực hiện tốt phương châm: Bốn không, bốn tránh, chín K, bốn giữ vững. Bốn không: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bốn tránh: tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh bị cô lập về chính trị, tránh bị lệ thuộc về chính trị.

 Chín K: kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và không để xảy ra xung đột, đụng độ, không nổ súng trước. Bốn giữ vững: giữ vững chủ quyền quốc gia; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển; giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt – Trung; giữ vững ổn định chính trị trong nước.

 Trước vấn đề tranh chấp trên Biển Ðông hiện nay, có quan điểm cho rằng Việt Nam cần phải kiện Trung Quốc ra toà trọng tài quốc tế và phải đánh Trung Quốc. Thực ra, hiện nay Việt Nam chưa kiện, chứ không phải không kiện. Bởi, Việt Nam chủ trương đấu tranh bằng phương pháp hoà bình theo từng cấp độ, theo diễn biến của tình hình và trên cơ sở phương châm 16 chữ (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và 4 tốt (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) trong quan hệ với Trung Quốc. Mặt khác, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh cả trên thực địa và ngoại giao. Khi cần thiết, chuẩn bị đầy đủ các yếu tố ta sẽ kiện, mà đã kiện là phải thắng.

 Hơn bất kỳ một dân tộc nào, dân tộc ta thấu hiểu được sự mất mát đau thương của chiến tranh. Trong điều kiện hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra sẽ là vô cùng nguy hại, sẽ là thiệt hại vô cùng lớn cả về con người và cơ sở vật chất, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, ngoại giao; đặc biệt là không còn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước…

 Khi chúng ta đã dùng hết mọi biện pháp hoà bình, không còn biện pháp nào khác thì chúng ta buộc phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thố, biển đảo của Tổ quốc. Khi buộc phải đánh, chúng ta sẽ đánh và đã đánh là phải thắng.

 Thực tế lịch sử đã chứng minh, đất nước Việt Nam có Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có nhân dân anh hùng, có quân đội anh hùng. Việt Nam đã có Ðiện Biên Phủ trên bộ, Ðiện Biên Phủ trên không, nếu tình huống xấu nhất xảy ra (dù ta không hề muốn), chắc chắn chúng ta sẽ có Ðiện Biên Phủ trên biển.

 Vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị

 Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

 

 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, bao gồm các tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền, tổ chức nhà n ước và kinh nghiệm áp dụng các học thuyết đó của các nước trên thế giới để đưa vào thử nghiệm và từng bước xây dựng, hoàn thiện ở Việt Nam. Đây là quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, không sao chép, rập khuôn, giáo điều mà luôn luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.

 Đặc biệt, từ sau Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, phản ánh quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm gia đình ông Bùi Minh Phong là gương nông dân sản xuất giỏi ở bon Jun Júh, xã Đức Minh (Đắk Mil). Ảnh: Ngọc Tâm

 Theo đó, với quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.

 Với việc được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.

 Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nước láng giềng, các nhà nước và các dân tộc khác trên thế giới; tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.

 Vì vậy, có thể nói, trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Nhà nước đóng vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Vì đó là thiết chế biểu hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực ấy.

 Không những đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị mà Nhà nước còn là người đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó làm cho Nhà nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện tốt những quyết định, chính sách của mình. Nhà nước cũng là chủ thể của quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân; có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội. Nhờ có pháp luật, mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước được triển khai một cách rộng rãi và thống nhất trên quy mô toàn xã hội.

 Nhà nước cũng có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Nhà nước còn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân.

 Nhà nước nắm giữ nguồn tài chính và cơ sở vật chất to lớn, bảo đảm cho hoạt động của bộ máy nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội khác. Nhà nước có quyền tối cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Những quan hệ quốc tế trong lĩnh vực chính trị và kinh tế càng làm cho Nhà nước có vai trò nổi bật hơn trong các quan hệ đối nội, giúp Nhà nước củng cố và phát triển các quan hệ đó trong một thể thống nhất.

 Tất cả các điều kiện trên là ưu thế riêng có của Nhà nước XHCN so với các tổ chức chính trị, xã hội khác, chúng quy định vị trí, vai trò trung tâm của Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hiện nay, việc tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng và mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

 Do đó, cùng với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng đang tập trung đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, cải cách nền hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, thực sự là của dân, do dân, vì dân.

 Các câu hỏi thường gặp về nhà nước

 Nhà nước của dân theo tư tưởng hồ chí minh là…?

 Một nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà nước nếu biết lắng nghe và học hỏi Nhân dân, biết tôn trọng bồi dưỡng và nâng cao sức dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của Nhân dân thì sẽ thấy nhân dân không chỉ nói lên những mong muốn của mình mà còn chỉ ra được nhà nước cần phải hành động như thế nào để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh. Chính vì lẽ đó Nhà nước được thành lập không vì mục đích làm thay cho dân, mà thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải quyết các vấn đề của chính mình. Người viết: “Nếu không có Nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì Nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Nhà nước của dân, do dân không có mục đích tự thân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh của Nhà nước là phụng sự hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân. Vì lẽ đó Hồ Chủ Tịch cho rằng “… Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng nếu nước nhà độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì… Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc…”. Người nhắc nhở: “Việc gì lợi cho dân thì phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh…”.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời Người là một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của một con người suốt đời vì dân, vì nước.

 Vai trò của bộ máy hành chính nhà nước trong bộ máy nhà nước.

 Vai trò của bộ máy hành chính nhà nước trong bộ máy nhà nước được thể hiện cụ thể như sau:

 Thứ nhất: Về chính trị

 Đây là nhiệm vụ cơ bản của hành chính nhà nước, cũng là chức năng cơ bản của tổ chức hành chính nhà nước, còn gọi là chức năng thống trị.

 Tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thông qua các thiết chế thuộc hệ thống bộ máy hành chính nhà nước như công an, an ninh quốc gia, quân sự, tình báo… để điều khiển các chức năng mang tính bắt buộc, khống chế, bảo vệ, phòng ngự, trấn áp nhằm giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc gia.

 Thứ hai: Về kinh tế

 Thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế của bộ máy hành chính nhà nước như các Bộ, các ngành để tổ chức và quản lý kinh tế – xã hội.

 Chức năng kinh tế được thể hiện thông qua các hoạt động như: Định ra chiến lược, kế hoạch phát triển xã hội và nền kinh tế quốc dân, bao gồm các quy hoạch, kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế khu vực; các quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế; ban hành chính sách, văn bản pháp luật, quy định tiêu chuẩn, định mức, quy phạm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu; phối hợp hài hòa những mối quan hệ kinh tế và kế hoạch phát triển giữa các ngành, địa phương, các xí nghiệp; chỉ đạo và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa các ngành với các địa phương…

 Thứ ba: Về văn hóa

 Chức năng văn hóa được thể hiện thông qua các hoạt động như: Định ra chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển khoa học, văn hóa, giáo dục; ban hành chính sách, văn bản pháp luật để quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật…; chỉ đạo, giám sát, hiệp đồng các ngành nghiên cứu khoa học – kỹ thuật và các đơn vị giáo dục; phát triển đội ngũ cán bộ có năng lực nhằm nâng cao hiệu quả của chức năng văn hóa của bộ máy hành chính nhà nước, thúc đẩy sự 29 phát triển của khoa học, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng văn hóa, tư tưởng của toàn dân tộc, xây dựng xã hội văn minh.

 Thứ tư: Về xã hội

 Đây là một chức năng rộng, bao hàm trong nhiều hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

 Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tất cả những chức năng quản lý của bộ máy hành chính nhà nước đối với các “công việc chung” trên một phạm vi rộng đều được gọi là chức năng xã hội.

 Chức năng này được thể hiện thông qua việc xây dựng các bộ máy chuyên ngành để thực thi sự quản lý đối với các công việc như phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội và cung cấp dịch vụ công cộng như y tế, bảo vệ trẻ em, bảo vệ môi trường và xây dựng các công trình phúc lợi công cộng…

 So sánh nhà nước pháp quyền xhcn và nhà nước pháp quyền tư sản

 – Giống nhau:

 + Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó pháp luật có giá trị thực thi cao nhất với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân

 + Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Pháp luật không những được coi là công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội công dân, mà còn xác định ở vị trí cao nhất, tuyệt đối vượt qua mọi quyền lực của tổ chức chính trị, xã hội mà mỗi công dân trong xã hội đó

 + Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp

 + Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực Nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân, thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực nhà nước, thực hiện chế độ trưng cầu ý dân. Mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ, trách nhiệm quyền lợi theo quy định của pháp luật

 – Khác nhau:

 + Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ…) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ…

 + Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động – những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản

 + Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất

 + Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất giai cấp công nhân, nhà nước là công cụ duy trì quyền lực của đa số nhân dân lao động, thực hiện dân chủ đối với nhân dân và chuyên chính đối với kẻ thù xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất giai cấp tư sản, nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, đó là thiểu số người giàu có trong xã hội – giai cấp tư sản

 + Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án lệ” hoặc “tập quán” như một loại quy phạm pháp luật “bất thành văn”

 Kiểu nhà nước đầu tiền trong lịch sử loài người là:

 Kiểu nhà nước chủ nô

 Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là?

 Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chê’ và thề chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

 Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức manh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

 V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một màng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính trị,… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã ứở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sỏ hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trân áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù,… Ph. Ăngghen cũng cho rằng: nhà nước đó vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyên nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bây nhiêu.

 Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

 Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, vai trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hĩnh thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điểu kiện lịch sử mới.

 Quy định thưởng tết của nhà nước

 https://luatvietnam.vn/lao-dong/bo-luat-lao-dong-2019-179015-d1.html

 Ngày nghỉ tết theo quy định nhà nước

 Căn cứ theo quy định tại Bộ Luật lao động 2019 thì hằng năm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên phạm vi cả nước đều được nghỉ Tết Âm lịch ít nhất là 05 ngày và được hưởng nguyên lương đối với những ngày này

  

  

  

  

  

  

  

 Tag: gdcd 7 tổng toán hồi doanh 5 “xây lành mẫu giá xe chó bỏ thoái vốn 2019 uy khoán ngân hàng xin xóa đói giảm nghèo thanh đoạn nào? tây tuyển bồi thường trị… trù trợ nhật kỹ soạn thảo chị góp sạch nghỉ phá phép 3 kể cán danh vinh dự dđã em sơ báo cáo hãy lê sắp tiền nhập ub mới bàn họp ca dao ngữ ghi hỗ miễn phí arv nay? thị hoại tin ga ngành đồ 2016 gọi mại tội thiếu gây nghiêm cục trưởng giám phi gs tầm vài dụ tỏ sánh xưng is wiki tỉnh an giang tặng thưởng quý download tuyên truyền miền bắc hoạch âu lạc chxhcn in 100 quán giữa mttqvn phận hàn cntb mấy nước? giấy “đăng tra khẩu nâng gái chăm pa câu hỏi ôn 61 bán đề-ga bang lưu trữ trạng tiín nhiêu kho bac tăng cường trái phiếu hạn trả lãi suất: champa trực violet hàm voz ngan hang cương thẩm lễ kỷ 1050 cồ keynes cổ dẫn mức y khối chuyển bày mạnh” iraq levant ngô là: 09/2016/tt-btc trúc nghệ thuật hao đinh tphcm sụp thôi 34 ngaân đòi “nhân khí ” ai? uỷ mã ngạch dega trao tncs đh khtn? viết cảm ơn haivl bệnh viện tín palestine 2018 tang 2005 phố đăng trần cuối 20 30 xx xô gì? agribank vatican ai bidv aten loài logo tái dục chặn facebook trụ cột mẽ lái bổng boộ 2017 nghi nửa đây? (is) (phần ii) chạy vàng hôm nhận? kieểm tân asia israel nộp vector chương ubck chán haàng chúc mừng vẽ nguyễn bản? gồm? pdf đán lich 2020 dương 2015